Đồng bằng sông Cửu Long là vùng chịu tác động nặng
nề nhất của biến đổi khí hậu, nhất là mực nước biển dâng, để giảm thiểu
và thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế và liên kết các đô
thị trong vùng này cần hướng tới một nền kinh tế xanh, trong đó vai trò
tăng trưởng xanh là động lực cơ bản. Muốn vậy cần phải có những cơ chế,
chính sách huy động nguồn lực tài chính hiệu quả đầu tư cho tăng trưởng
xanh không chỉ cho cả nước mà còn có cơ chế đặc thù của vùng để liên
kết các đô thị phát triển theo hướng kinh tế xanh.
I. Những Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh
Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia mặc dù mới được ban hành hơn một
năm, hiện nay đang quá trình xây dựng và hoàn thiện chương trình hành
động để thực hiện Chiến lược này ở nước ta, nhưng việc triển khai đã
được khởi động ở một số địa phương như Quảng Nam, hay một số Hội thảo,
Hội nghị nhằm huy động nguồn lực tài chính cho chiến lược này đã được
thực hiện ở Hà Nội do Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì với sự tham gia của
các tổ chức tài chính trong và ngoài nước.
- Về chủ trương của Đảng, sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 7, khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó
với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường”, trong đó nhiệm vụ trọng tâm đã khẳng định “Thúc đẩy chuyển đổi
mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng
trưởng xanh và phát triển bền vững”, để thực hiện nhiệm vụ này liên quan
đến giải pháp chủ yếu, nội dung của giải pháp thứ tư cũng đã chỉ ra
“Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính, tăng cường và đa dạng
hóa nguồn lực cho ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và
bảo vệ môi trường” điều đó cũng phù hợp với thực hiện nhiệm vụ theo
hướng tăng trưởng xanh.
- Đối với Chính sách của Nhà nước, Chính phủ đã ban hành quyết định số
432/QĐ-TTg ngày 12 tháng 4 năm 2012 về “phê duyệt Chiến lược Phát triển
bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020”, mặc dù ban hành trước quyết định
số 1393/QĐ-TTg, liên quan đến tăng trưởng xanh, nhưng đã đưa ra chỉ
tiêu giám sát trong số các chỉ tiêu tổng hợp đó là GDP xanh, đối với cơ
chế, chính sách, huy động nguồn lực tài Chính thể hiện các nhóm giải
pháp có giải pháp thứ hai về “tăng cường các nguồn lực tài chính để thực
hiện phát triển bền vững”. Trong quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày
25-9-2012 “phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh”, đối với
“Giải pháp thực hiện”, trong nội dung giải pháp số 14 về “Huy động nguồn
lực thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh” với 4 nội dung đưa ra, đáng
chú ý có nội dung thứ hai đã chỉ rõ “Ban hành cơ chế, chính sách khuyến
khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp
nhỏ và vừa triển khai các hoạt động sản xuất kinh doanh theo tiêu chí
tăng trưởng xanh”. Như vậy với quyết định của Chính phủ, việc xây dựng
cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng
xanh đã được khẳng đinh rõ ràng. Đối với Quốc Hội, là cơ quan lập pháp,
hiện nay đang quá trình nghiên cứu để nhận dạng, học hỏi kinh nghiệm các
nước nhằm tiến tới xác lập khung thể chế cho tăng trưởng xanh ở nước
ta.
Như vậy từ chủ trương của Đảng đến Chính sách của Nhà nước đã khẳng định
tăng trưởng xanh là hướng đi tất yếu của chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trong thời gian sắp tới. Để thực hiện yêu
cầu này đòi hỏi phải có một cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài
chính hiệu quả và đa dạng từ ngân sách Nhà nước, đị phương và trong xã
Hội nhằm đầu tư cho tăng trưởng xanh.
II. Đề xuất giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh
1. Cơ sở thực tiễn đề xuất các giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh.
- Kinh nghiệm thế giới cho thấy, nếu tiếp cận theo hướng kinh tế xanh sẽ
mang lại cho nền kinh tế không chỉ là phúc lợi xã hội mà còn góp phần
khôi phục, duy trì và phát triển hệ sinh thái, giảm rủi ro môi trường
đảm bảo phát triển bền vững. Theo kết qủa nghiên cứu của các tác giả
trong tài liệu “Hướng tới nền kinh tế xanh” do chương trình môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP) công bố năm 2011, nếu thực hiện mô hình kịch bản
đầu tư xanh hàng năm với số vốn khoảng 2% GDP toàn cầu (Khoảng 1300 tỷ
USD), trong đó khoảng một phần tư của tổng số (0,5% GDP) tương đương với
số tiền 350 tỷ USD được đầu tư cho các lĩnh vực sử dụng nhiều vốn tự
nhiên như các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nước sạch và thủy sản. Cũng
theo tính toán của các nhà nghiên cứu kinh tế xanh, giai đoạn 2011-2050
các khoản đầu tư sẽ tăng lên do tăng trưởng kinh tế, đến năm 2050 đạt
3,9 nghìn tỷ USD (tính theo tỷ giá năm 2010), khi đó thế giới sẽ chuyển
dịch các hoạt động đầu tư “nâu” sang các hoạt động đầu tư “xanh”, xét về
mô hình kinh tế vĩ mô trong dài hạn, với mức độ đầu tư này sẽ có một sự
cải thiện đáng kể theo hướng kinh tế xanh và sẽ làm tăng tổng lượng của
cải toàn cầu. Đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh còn tạo ra nhiều
việc làm cho xã hội, theo tính toán của UNEP năm 2009 ở châu Âu và Mỹ,
việc đầu tư tài chính xây dựng các tòa nhà xanh đã tạo ra 2-3,5 triệu
việc làm. Ở Trung Quốc, đầu tư cho lĩnh vực tái chế chất thải đã tạo ra
10 triệu việc làm và doanh thu 17 tỷ USD/năm. Ở các nước đang phát
triển, theo tính toán và dự báo của ngân hàng thế giới (WB), đối với nhu
cầu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xanh như năng lượng,
xây dựng, vận tải trên toàn cầu có thể lên tới 563 tỷ USD vào năm 2030
cùng với 100 tỷ USD thích ứng với biến đổi khí hậu. Từ các cơ sở dữ liệu
này cho thấy nếu đầu tư vào kinh tế xanh tạo ra tăng trưởng xanh là
chiến lược dài hạn cho phát triển bền vững trong tương lai.
Về thể chế tài chính huy động đầu tư cho tăng trưởng xanh hiện nay trên
thế giới cũng đang quá trình nghiên cứu, chưa có nhiều bài học kinh
nghiệm. Tuy nhiên trong nội dung tăng trưởng xanh, một yếu tố quan trọng
nhất mà các quốc gia trên thế giới đều hướng tới, đó là gắn bó chặt chẽ
với biến đổi khí hậu, đầu tư tài chính cho giảm thiểu và thích ứng với
biến đổi khí hậu đã có những đề xuất về thể chế và chính sách cho các
nước đang phát triển thể hiện ở hình 1dưới đây, chúng ta có thể tham
khảo.
Hình 1: Các dòng tài chính và đầu tư cho BĐKH ở các nước đang phát triển.
Nguồn: MPI, UNDP-Huy động nguồn tài chính ứng
phó với biến đổi khí hậu. Báo cáo nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách
huy động và sử dụng vốn ODA và các nguồn tài chính bên ngoài cho ứng phó
với Biến đổi khí hậu ở Việt Nam- Hà nội 7/2011- trích từ “A.Atteridge
và khác, những thể chế tài chính song phương và BĐKH: Tổng quan danh mục
khí hậu, Viện môi trường Stockholm, 2009”.
Như vậy để huy động nguồn tài chính cho biến đổi khí hậu cơ bản có hai
nguồn, đó là từ ngân sách Chính phủ và thị trường vốn. Đối với đầu tư
tài chính cho tăng trưởng xanh, cơ bản cũng xuất phát từ hai nguồn này.
- Thực tiễn của Việt Nam, đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh hiện nay
chưa được phân biệt rạch ròi, bởi lẽ chiến lược tăng trưởng xanh mới ra
đời năm 2012, hiện chưa có chương trình hành động và chưa có tiêu chí
cho đầu tư tài chính vào tăng trưởng xanh. Nếu theo mô hình đầu tư tài
chính cho tăng trưởng xanh hàng năm theo các ngành như UNEP khởi xướng
gồm 9 lĩnh vực: Nông nghiệp, xây dựng, cung cấp năng lượng, ngư nghiệp,
lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông, chất thải và nước thì chúng ta cũng
đã tiến hành từ trước đến nay, nhưng phân biệt rạch ròi tiêu chí nào là
đầu tư cho tăng trưởng xanh thì chưa có, do vậy cần sớm có tiêu chí đầu
tư tài chính cho tăng trưởng xanh đối với các ngành và lĩnh vực.
Nếu xem xét đầu tư tài chính gần với tăng trưởng xanh theo cách nhìn
nhận của UNEP đối với các ngành, những năm vừa qua chúng ta cũng đã tiến
hành thực hiện đầu tư tài chính dưới nhiều hình thức và thành phần kinh
tế khác nhau, đối với đầu tư từ ngân sách Nhà nước có chương tình 327
trồng lại rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, sau đó kế tiếp là chương
trình 5 triệu ha rừng. Trong lĩnh vực môi trường mức chi cho công tác
bảo vệ môi trường hàng năm là 1% tổng chi ngân sách.... Nguồn tài chính
đầu tư nước ngoài dưới các hình thức khác nhau cũng liên tục tăng, nhất
là lĩnh vực bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên và biến đổi khí hậu,
chúng ta đã giảỉ quyết khá tốt về đầu tư tài chính cho giảm nghèo, nước
sạch và hợp vệ sinh. Đối với Biên đổi khí hậu, không chỉ nguồn vốn đầu
tư từ ngân sách Nhà nước theo chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu mà chúng ta còn nhận được nguồn tài trợ quốc tế khá
lớn tính đến năm 2011 đã có khoảng 1,2 tỷ USD đầu tư tài chính dưới
nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu cho thích ứng với biến đổi khí
hậu, ngoài ra chúng ta cũng đã có cơ chế chính sách thu hút nguồn vốn
tài chính xã hội hóa khuyến khích đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau liên
quan đến tăng trưởng xanh. Mặt khác từ khi chúng ta gia nhập WTO (năm
2007), với chính sách đẩy mạnh hội nhập kinh tế thế giới nhằm tăng thu
hút đầu tư nước ngoài và huy động nguồn tài chính của các thành phần
kinh tế khác nhau, so với trước đây nguồn vốn sau một năm đã tăng đáng
kể, tuy nhiên do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu năm 2008 lượng đầu tư tài chính giảm sút. Thống kê tính toán
thể hiện thông qua biểu đồ dưới đây.
Hình 1: Tăng trưởng vốn đầu tư toàn xã hội
(Theo giá so sánh 1994)
Nguồn:Nguyễn Đăng Bình, tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê (2011a, 2011b, 2012b)
Kết quả nghiên cứu tổng dòng vốn đầu tư toàn xã hội (ĐTTXH) vào Việt Nam
từ sau khi gia nhập WTO cho thấy đã tăng mạnh trong năm đầu tiên gia
nhập WTO nhờ những tín hiệu lạc quan của việc thu hút vốn đầu tư của khu
vực tư nhân: dòng vốn FDI tăng kỷ lục (93,4%), khu vực ngoài Nhà nước
cũng tăng cao nhất trong nhiều năm (26,9%). Năm 2007 cũng là năm tổng dư
nợ tín dụng của nền kinh tế tăng cao nhất đạt mức 53,9% theo giá thực
tế. Một trong những nguyên nhân ĐTTXH năm 2008 tăng thấp hơn là do chính
sách thắt chặt đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước nhằm đối phó với
tình hình lạm phát cao (đầu tư của khu vực này giảm 2,5% so với năm
2007) và những khó khăn của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước (đầu tư của
khu vực này giảm 3,5% so với năm 2007). Mặc dù vậy, đầu tư của khu vực
FDI vẫn tăng 36,1% cho thấy dòng vốn FDI vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam
trong năm 2008 nhờ những thuận lợi về môi trường đầu tư sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Năm 2009, mặc dù Chính phủ áp dụng các biện pháp kích
thích kinh tế, trong đó có kích cầu đầu tư (đầu tư của khu vực Nhà nước
tăng 34,6%) để ngăn chặn suy giảm và hạn chế ảnh hưởng cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, nhưng do đầu tư của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài giảm (-8,6%), nên tổng vốn ĐTTXH chỉ tăng 11,4%.
Từ năm 2010 đến 2012, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn sau khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, ảnh hưởng không nhỏ đến tình
hình đầu tư, kinh doanh. Từ năm 2011, Chính phủ ttriếp tịc thực hiện chủ
trương kiềm chế lạm phát, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có
các biện pháp cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư của Nhà nước, thắt chặt
tín dụng. Do đó, vốn ĐTTXH từ mức tăng trưởng 7,8% năm 2010 đã tăng
trưởng âm (-9,3%) vào năm 2011, mức tăng trưởng âm này chưa từng có từ
trước tới nay, báo hiệu một sự khó khăn còn tiếp diễn cho nền kinh tế
đến nay.
Nếu xem xét đầu tư tài chính theo khu vực kinh tế giữa Nhà nước và ngoài
Nhà nước, xu hướng đầu tư ngoài Nhà nước có chiều hướng tăng trưởng cao
hơn so với khu vực Nhà nước. Sau khi gia nhập WTO, trừ năm 2009 do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Trong 5
năm sau gia nhập WTO, vốn đầu tư của khu vực FDI tăng bình quân
16,8%/năm, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 10,9%/năm, cao hơn đáng
kể so với mức tăng 2,8%/năm của của khu vực Nhà nước (Nguyễn Đăng Bình).
Nhìn nhận tăng trưởng vốn đầu tư theo khu vực kinh tế thể hiện thông
qua biểu đồ hinh 2 dưới đây.
Hình 2: Tăng trưởng vốn đầu tư theo từng khu vực kinh tế
(Theo giá so sánh 1994)
Nguồn: Nguyễn Đăng Bình-Số liệu của Tổng cục Thống kê (2011a, 2011b, 2012b)
Từ kết quả đầu tư toàn xã hội những năm vừa qua cho thấy xu hướng đầu tư
tài chính cho toàn nền kinh tế nói chung và cho các ngành nói riêng sẽ
có sự thay đổi lớn, nguồn vốn ngoài xã hội sẽ tăng, còn nguồn vốn đầu tư
của Nhà nước giảm, có sự thay đổi đầu tư trong cơ cấu ngành và thành
phần kinh tế, nhất là trong bối cảnh của xu hướng toàn cầu đang chuyển
từ ”nền kinh tế nâu” sang ”nền kinh tế xanh” Việt Nam cũng sẽ nằm trong
xu hướng đó. Tuy nhiên huy động đầu tư tài chính cho nền kinh tế nói
chung và tăng trưởng xanh nói riêng trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế
giới, ngoài những thể chế, chính sách đưa ra có tính thuyết phục còn
phải tính tới những rủi ro do tác động của bên ngoài, của xu thế chung
có tính toàn cầu và sự biến động của nội lực, những nguồn tài chính
trong nước.
2. Đề xuất giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam.
Để có nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh cần có một cơ chế,
chính sách hợp lý dựa trên cơ sở cơ chế, chính sách tài chính hiện hành
của Việt Nam có sự tham khảo kinh nghiệm quốc tế. Đặc biệt cần bám vào
nhiệm vụ chiến lược đã đề ra trong quyết định 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012
đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành về ” Phê duyệt Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh”.Trong đó giải pháp thực hiện ở mục 14 như đã nêu ở
trên đã đưa ra các giải pháp chung nhằm ban hành cơ chế, Chính sách huy
động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, từ
giải pháp chung đó, cần phải triển khai cụ thể và chi tiết hơn, trước
hết cần làm rõ thế nào là ”tiêu chí tăng trưởng xanh” cho các ngành và
các lĩnh vực để ưu tiên huy động nguồn lực tài chính đầu tư . Những cơ
chế, chính sách sau đây cần hướng tới nhằm huy động nguồn lực tài chính
đầu tư cho tăng trưởng xanh.
- Thứ nhất, cần sớm hoàn thành kế hoạch hành động quốc gia về tăng
trưởng xanh đến năm 2020 để được phê duyệt, trong đó có hai nội dung
quan trọng cần triển khai ngay đó là:
+ Giao Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì cùng các Bộ ngành liên quan sớm
hoàn thành khung thể chế tăng trưởng xanh đến năm 2020, trong đó cần làm
rõ những yêu cầu cơ bản của tăng trưởng xanh và cơ cấu lại ngành kinh
tế theo hướng xây dựng một nền kinh tế xanh.
+ Giao Bộ tài chính chủ trì và các bộ ngành liên quan như Bộ kế hoạch và
đầu tư, Bộ tài nguyên và môi trường xây dựng khung chính sách tài chính
cho tăng trưởng xanh. Trong đó thể hiện những nội dung cơ bản cần huy
động nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh theo các tiêu chí của
tăng trưởng xanh đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương.
- Thứ hai, như đã phân tích ở trên xu hướng đầu tư tài chính hiện nay sẽ
có sự gia tăng của xã hội và giảm ngân sách Nhà nước, chính vì vậy
Chính sách đầu tư tài chính nên hướng vào xã hội, phát huy tiềm lực tài
chính doanh nghiệp, trong dân và nước ngoài sẽ hiệu quả và phù hợp hơn
với xu thế phát triển hướng tới nền kinh tế xanh. Muốn vậy cần rà soát
và tạo lập thị trường tốt hơn cho khuyến khích tài chính đầu tư vào tăng
trưởng xanh, hình thành thị trường vốn tài chính đầu tư cho tăng trưởng
xanh trong tương lai.
- Thứ ba,muốn có nguồn tài chính đầu tư cho tăng trưởng xanh, phải đẩy
mạnh cơ chế tăng nguồn thu lấy từ những nguồn vốn của tự nhiên thông qua
hệ thống thuế, phí, phạt vi phạm..., chính vì vậy cần đánh giá, rà soát
lại các cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp liên quan đến tăng nguồn
thu hiện hành từ đó có những bổ sung phù hợp. Hiện nay ta đã có thuế môi
trường, thuế tài nguyên, Nghị định thu phí nước thải, Nghị định chi trả
dịch vụ môi trường, Nghị định bồi hoàn thiệt hại môi trường..., nhưng
còn nhiều bất cập, nhất là thuế môi trường và thuế tài nguyên cần phải
xem lại. So với các nước khác, thuế suất tài nguyên của nước ta còn
thấp, nhất là các kim loại quý hiếm, cần phải điều chỉnh tăng.
- Thứ tư, cần phân cấp rõ nguồn vốn tài chính trung ương và địa phương
đầu tư cho tăng trưởng xanh, phát huy nội lực và thế mạnh tài chính của
địa phương để đầu tư cho tăng trưởng xanh. Muốn vậy cần có sự cân đối
lại tỷ lệ đóng góp giữa trung ương và địa phương vào tăng trưởng xanh,
cần có cơ chế khuyến khích và hình thức khen thưởng rõ ràng đối với
những địa phương thực hiện tốt đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh.
- Thứ năm, đối với doanh nghiệp, thông qua chính sách ưu đãi, nhất là ưu
đãi về thuế , phí, cho vay tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh, việc làm xanh để
tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trưởng.
- Thứ sáu, đối với nguồn lực tài chính bên ngoài như nguồn vốn ODA,
nguồn vốn của các tổ chức quốc tế..., cần xây dựng và hoàn thiện thể chế
tài chính song phương và thể chế tài chính đa phương đầu tư cho tăng
trưởng xanh.
- Thứ bảy, sớm thành lập quỹ hỗ trợ kinh tế xanh, cũng gần giống như các
nguồn quỹ khác, đây là một cơ chế tài chính có tính độc lập, hỗ trợ cho
tăng trưởng xanh, việc hình thành quỹ này sẽ là địa chỉ thu hút các
nguồn tài chính của Nhà nước và xã hội bổ sung cho đầu tư tài chính tăng
trưởng xanh và bảo toàn vốn phát triển kinh tế xanh.
Kết luận.
Nhằm tăng nguồn đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh đòi hỏi phải có
những cơ chế, chính sách phù hợp. Muốn vậy cần phải rà soát lại các chủ
trương, chính sách, hệ thống luật pháp hiện hành liên quan đến huy động
nguồn lực tài chính đầu tư cho phát triển ngành và các lĩnh vực, cơ chế
chính sách nào đã có đầu tư gần với tăng trưởng xanh. Mặt khác, chúng ta
cũng cần học hỏi kinh nghiệm của thế giới, nhất là các nước đã có những
thành công nhất định trong đầu tư tài chính cho tăng trưởng xanh như
Hàn quốc, Indonexia, Trung Quốc, Băngladet... từ đó vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể của nước ta để có một thể chế và chính sách phù hợp.
Theo PGS.TS Nguyễn Thế Chinh (Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường)